Những chuyển động thúc đẩy bình đẳng giới tại nơi làm việc trong kỷ nguyên mới

Bài viết liên quan
Danh mục liên quan
Thẻ liên quan
Chia sẻ bài viết
Từ vai trò tiên phong của ngành Cấp thoát nước Việt Nam
Ngành cấp thoát nước Việt Nam, chủ yếu hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoặc có vốn nhà nước chi phối, đang nổi lên như một lĩnh vực có vai trò tiên phong trong việc thúc đẩy bình đẳng giới tại nơi làm việc. Dựa trên các dự án khảo sát và hợp tác quốc tế gần đây, ngành này không chỉ nhận diện khoảng cách giới mà còn đề xuất các chiến lược cụ thể để cải thiện, vượt trội so với nhiều khối DNNN khác trong nước.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và đô thị hóa nhanh chóng, ngành cấp thoát nước Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, và bình đẳng giới nổi lên như một yếu tố then chốt để thúc đẩy phát triển bền vững. Báo cáo của UN Women về bình đẳng giới và biến đổi khí hậu ở Việt Nam nhấn mạnh rằng phụ nữ – những người thường chịu tác động lớn nhất từ ô nhiễm nước và hạn hán – lại bị loại trừ khỏi quyết sách, làm giảm hiệu quả của các giải pháp bền vững.
Theo báo cáo của ADB năm 2025, phụ nữ chiếm khoảng 33% lực lượng lao động trong ngành cấp thoát nước Việt Nam, nhưng chỉ nắm giữ 7% vị trí lãnh đạo (như Hội đồng Quản trị hoặc Ban Giám đốc). Sự phân biệt giới rõ rệt: phụ nữ chủ yếu tập trung ở bộ phận hành chính, bán hàng và kế toán (54% ở hành chính, 29% bán hàng), trong khi chỉ 17% ở kỹ thuật – lĩnh vực mà nam giới thống trị (53%). Các rào cản bao gồm định kiến giới tính, thiếu đào tạo lãnh đạo dành riêng cho phụ nữ, và môi trường làm việc chưa thân thiện (như thiếu cơ sở vật chất an toàn hoặc hỗ trợ sức khỏe phụ khoa).
Những con số này phản ánh thực tế rằng bình đẳng giới tại nơi làm việc trong ngành Cấp thoát nước vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Điều này dẫn đến lãng phí nguồn nhân lực và cản trở sự phát triển sản xuất, do ngành chưa tận dụng được hết năng lực, kinh nghiệm và góc nhìn đa dạng mà phụ nữ có thể mang lại, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số và Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư.
Trong khối DNNN Việt Nam, chỉ số bình đẳng giới có một số tiến bộ nhất định, nhưng vẫn tồn tại khoảng cách lớn, với phụ nữ chiếm 49,6% lực lượng lao động công nhưng chỉ 29,7% vị trí quản lý. So với các DNNN khác, ngành Cấp thoát nước có tỷ lệ nữ lao động thấp hơn trung bình (33% so với 49,6%), nhưng tỷ lệ lãnh đạo nữ (7%) thấp hơn đáng kể so với trung bình DNNN (29,7%). Ví dụ, trong ngành điện (EVN), phụ nữ chỉ chiếm dưới 13% vị trí quản lý, chủ yếu ở vai trò hành chính và tài chính, tương tự ngành Cấp thoát nước.
Tuy nhiên, có thể thấy ngành Cấp thoát nước đang có những chuyển động đột phá nhờ vào nhận thức rõ ràng của cấp lãnh đạo, và các sáng kiến triển khai rất cụ thể, như ứng dụng bộ công cụ GEARS (giúp đo lường và quản trị Chỉ số Bình đẳng giới tại nơi làm việc) qua phối hợp giữa ADB và Hiệp hội Cấp thoát nước Việt Nam (VWSA), đánh giá sâu tại các doanh nghiệp lớn để xác định khoảng cách và đề xuất giải pháp. Đây là lần đầu tiên một khảo sát bình đẳng giới toàn diện được thực hiện trong ngành Cấp thoát nước Việt Nam, và được công bố tại Tuần lễ Nước Việt Nam 2024, với mục tiêu xây dựng Chiến lược Bình đẳng Giới cho ngành trong giai đoạn 2025-2030.
Vai trò tiên phong thể hiện ở việc ngành Cấp thoát nước không chỉ dừng ở nhận diện vấn đề mà còn tích hợp bình đẳng giới vào phát triển bền vững, như lồng ghép vào đào tạo và vận động chính sách (qua VWSA để bổ sung nội dung giới vào Luật Cấp thoát nước). Điều này giúp ngành đối phó với biến đổi khí hậu và áp lực đô thị hóa bằng cách đa dạng hóa lực lượng lao động, tăng sáng tạo và hiệu suất.
Ông Nguyễn Ngọc Điệp, Chủ tịch Hội Cấp Thoát nước Việt Nam phát biểu khai mạc hội thảo
Một số sáng kiến khác mà ngành Cấp thoát nước Việt Nam đang dẫn dắt đối với các đơn vị thành viên bao gồm:
  • Ở cấp độ ngành:
    • Thành lập CLB Lãnh đạo nữ ngành Nước để tạo diễn đàn giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm quản lý, nâng cao trình độ và tăng cường đoàn kết giữa các thành viên.
    • Xây dựng hệ thống chỉ số bình đẳng giới cho ngành nước, với mục tiêu giúp các doanh nghiệp tự đánh giá, điều chỉnh và nâng cao năng lực một cách thiết thực và bền vững.
    • Đề xuất lập giải thưởng bình đẳng giới hàng năm để khuyến khích mô hình tốt
  • Ở cấp độ doanh nghiệp:
    • Xây dựng chiến lược giới riêng cho từng doanh nghiệp.
    • Thành lập đội đặc nhiệm giới.
    • Dành ngân sách đào tạo & cố vấn nữ.
    • Mở rộng cơ hội học nghề cho nữ.
    • Tạo nơi làm việc an toàn, thân thiện.
Với cam kết từ chính phủ, VWSA và đối tác quốc tế, ngành cấp thoát nước Việt Nam có thể biến bình đẳng giới thành động lực cho đổi mới, góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, bao gồm:
  • 100% doanh nghiệp ngành nước có chiến lược về giới
  • Ít nhất 50% nữ tham gia đội ngũ lãnh đạo hoặc Hội đồng Quản trị
  • Hoàn thành xây dựng hệ thống chỉ số giới riêng biệt cho toàn ngành
  • Hoàn thành việc thúc đẩy và hỗ trợ xây dựng môi trường làm việc an toàn, hòa nhập và công bằng trong các đơn vị thành viên.
Bà Hạ Thanh Hằng, Phó Chủ tịch VWSA, Chủ tịch Câu lạc bộ Lãnh đạo nữ ngành Nước Việt Nam, nói: “Chúng tôi muốn biến bình đẳng giới thành một phần của chiến lược phát triển bền vững ngành nước. Điều này không chỉ tốt cho phụ nữ, mà tốt cho cả doanh nghiệp và cộng đồng”.
Bà Hạ Thanh Hằng, Phó Chủ tịch VWSA, Chủ tịch CLB Lãnh đạo nữ ngành Nước Việt Nam kết luận hội thảo
Đến việc cởi trói cho tiềm năng của nữ giới trong hoạt động nghiên cứu khoa học
Nếu bình đẳng giới trong ngành nước thể hiện ở khía cạnh thực thi và tổ chức sản xuất, thì trong khoa học – công nghệ, vấn đề này lại gắn với tri thức và đổi mới sáng tạo.
Theo UNESCO (2023), phụ nữ chỉ chiếm 31% tổng số nhà nghiên cứu toàn cầu, và khoảng cách giới càng rõ rệt ở những vị trí học thuật cao. Họ chỉ chiếm 12% thành viên các viện hàn lâm quốc gia, ít được mời diễn thuyết tại hội nghị lớn, tỷ lệ làm tác giả chính của các bài báo khoa học cũng thấp hơn nam giới. Đây là minh chứng cho sự tồn tại của “trần kính” và “đường ống rò rỉ”, khiến phụ nữ gặp nhiều trở ngại trên con đường sự nghiệp khoa học.
Tại hội thảo “Dấu ấn trí tuệ của nhà khoa học nữ Việt Nam và khát vọng bứt phá trong kỷ nguyên mới” vào tháng 8/2025, do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Đại học Quốc gia TP.HCM và Báo Phụ Nữ TP.HCM tổ chức, nhiều học giả khẳng định, phụ nữ là lực lượng tiên phong trong quá trình chuyển đổi số, phát triển bền vững và nghiên cứu ứng dụng.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó Giám đốc ĐHQG TP.HCM, người vừa nhận bằng công nhận Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới tại Brazil, cho biết: “Trong khoa học và công nghệ, sự tham gia của phụ nữ là yếu tố thiết yếu nhằm đảm bảo thành tựu khoa học được ứng dụng công bằng, hiệu quả cho mọi người”. Theo bà Mai, mô hình “Ba Nhà” (Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp) là khung lý thuyết hiệu quả, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thương mại hóa tri thức và nâng cao cạnh tranh. Nữ trí thức, với khả năng nhạy bén và kết nối liên ngành, đóng vai trò cầu nối, giúp tri thức lưu thông nhanh giữa các trụ cột. Nhiều nhà khoa học nữ Việt Nam tiên phong trong biến đổi khí hậu, y sinh, nông nghiệp thông minh, khởi nghiệp công nghệ, đưa khoa học gần hơn với doanh nghiệp và xã hội. Họ lan tỏa chính sách khoa học dễ hiểu, tham gia hội đồng tư vấn, sáng lập startup, kết nối nghiên cứu với thị trường, và thúc đẩy bình đẳng, sáng tạo qua lồng ghép giới.
Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Mai – Phó Giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM trình bày tham luận tại hội thảo
Trong đời sống kinh doanh, đặc biệt với sự ra đời của Nghi quyết 68 về kinh tế tư nhân và Nghị quyết 57 về khoa học công nghệ, có thể thấy hoạt động nghiên cứu khoa học không chỉ gói gọn trong phạm vi các phòng thí nghiệm ở các viện trường, mà đang diễn ra trong thực tiễn hoạt động hàng ngày, ở trong các bộ phận Nghiên cứu và Phát triển (R&D) của doanh nghiệp. Nếu nghiên cứu khoa học trong các viện trường tập trung vào các ngành cơ bản như khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, thì nghiên cứu tại doanh nghiệp xoay quanh các mục tiêu bám sát với cuộc sống, từ khoa học xã hội đến khoa học quản trị, để từ đó thấu hiểu được khách hàng tiềm năng, nhằm đem lại lợi thế cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh và chiếm lĩnh thị phần. Sự liên kết giữa nghiên cứu khoa học trong viện trường với nghiên cứu khoa học trong doanh nghiệp tạo nên vòng lặp chuỗi giá trị và cung ứng xuyên suốt vòng đời sản phẩm (hay dịch vụ) của doanh nghiệp.
Từ góc nhìn này, có thể thấy vai trò quan trọng của lực lượng nhân sự làm công tác nghiên cứu và phát triển tại các doanh nghiệp, trong đó một môi trường đa dạng và bình đẳng về giới sẽ tạo điều kiện để phát huy tối đa các góc tiếp cận và giải pháp đa chiều để tiếp cận hiệu quả các tệp khách hàng trong xã hội, vốn luôn đa dạng và biến đổi nhanh chóng theo sự phát triển của khoa học công nghệ ngày nay. Chính vì vậy, thúc đẩy bình đẳng giới tại nơi làm việc mà một yếu tố quan trọng để kiến tạo môi trường đa dạng, bình đẳng, dung hợp cho mọi nhân sự có điều kiện phát huy năng lực đặc thù của mình, góp phần cho sự phát triển chung của tổ chức. Nói cách khác, đây chính là giải pháp nâng cao chất lượng nhân sự nghiên cứu khoa học trong tổ chức.
Bên cạnh đó, xu hướng quốc tế cho thấy khung chính sách ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) đang trở thành tiêu chuẩn chung. Trong đó, yếu tố “S” – Social – có bao gồm chỉ số về minh bạch giới, đa dạng nhân sự và bảo vệ quyền lợi lao động nữ. Nếu doanh nghiệp Việt Nam không chứng minh được năng lực ESG, đặc biệt là chỉ số giới, họ sẽ khó tiếp cận nguồn vốn và cơ hội xuất khẩu. Ngược lại, coi bình đẳng giới là một lợi thế ESG sẽ mở ra cánh cửa hợp tác rộng lớn. Phúc Sinh, công ty xuất khẩu nông sản hàng đầu Việt Nam, là một minh chứng rõ nét cho xu hướng này khi nhận được nhiều nguồn vốn xanh trong năm 2024/2025 cho các hoạt động và dự án phát triển bền vững, trong đó bao gồm đủ các yếu tố Môi trường, Xã hội và Quản trị. Có thể thấy, yếu tố bình đẳng giới trong môi trường làm việc không chỉ giúp tổ chức nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu và phát triển, mà còn là cơ sở để tiếp cận các nguồn vốn đầu tư tác động đang nở rộ.
Tại hội thảo trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Thành Đạt, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, kết luận: “Phụ nữ không chỉ là người đồng hành, mà còn là lực lượng tiên phong trong kỷ nguyên số”. Theo đó, để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của nữ giới trong hoạt động nghiên cứu khoa học, cần thực hiện năm nhóm giải pháp bao gồm: Hoàn thiện khung pháp lý và chính sách tài trợ khoa học gắn chỉ tiêu giới; Xây dựng môi trường làm việc linh hoạt, thân thiện với phụ nữ; Phát triển mạng lưới và chương trình cố vấn nữ trí thức; Đào tạo kỹ năng lãnh đạo và quản trị khoa học cho nữ giới; và Tăng cường truyền thông, tôn vinh các gương nữ tiêu biểu.
Phó Giáo sư – Tiến sĩ Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương phát biểu tại hội thảo
Các nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy Bình đẳng giới tại nơi làm việc
Đồng hành cùng những chuyển động nói trên, chương trình GEARS@VN ra đời với sự hỗ trợ của Chính phủ Australia thông qua sáng kiến Investing in Women, cùng sự đồng hành của Trung tâm BSA và doanh nghiệp xã hội ECUE, nhằm thúc đẩy sự tham gia và trao quyền cho nữ giới trong lĩnh vực kinh tế và kinh doanh. Hiện chương trình này đang được triển khai ở các nước Indonesia, Philippines, Việt Nam và Myanmar.
Ra mắt từ tháng 01/2025, chương trình GEARS@VN hướng đến mục tiêu hỗ trợ các đơn vị và tổ chức đo lường và thực hành ESG toàn diện trong quản trị nguồn nhân lực, qua đó gia tăng lợi thế cạnh tranh trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chương trình được triển khai với 3 tuyến hoạt động nổi bật, bao gồm:
(1) Hỗ trợ đo lường và tư vấn cải thiện chỉ số Bình đẳng giới tại nơi làm việc (bằng bộ công cụ GEARS), giúp doanh nghiệp có số liệu minh bạch và xác thực để có thể đưa vào các báo cáo theo khung đánh giá ESG;
(2) Hỗ trợ truyền thông cho những sáng kiến và nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới tại nơi làm việc của doanh nghiệp thông qua hoạt động của Câu lạc bộ Doanh nghiệp tiên phong thúc đẩy Bình đẳng giới tại nơi làm việc, từ đó xây dựng cộng đồng có cùng tầm nhìn về bình đẳng giới tại nơi làm việc để chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi và lan tỏa hiệu ứng tích cực trong xã hội;
(3) Kết nối kinh doanh và đầu tư giữa các doanh nghiệp tham gia chương trình với nguồn vốn đầu tư tác động.
Sau 09 tháng chính thức hoạt động, chương trình đã tổ chức các hoạt động truyền thông đa dạng để nâng cao nhận thức về vai trò của yếu tố bình đẳng giới tại nơi làm việc của hàng ngàn doanh nghiệp, giúp các tổ chức nhận ra mối liên kết chặt chẽ của chỉ số này với các mục tiêu phát triển bền vững theo khung chính sách ESG.
Ông Nguyễn Phạm Hà Minh – Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp chia sẻ về chương trình GEARS@VN
Bên cạnh đó, đội ngũ chuyên gia của chương trình đang tiến hành tư vấn đo lường và quản trị chỉ số Bình đẳng giới tại nơi làm việc cho các doanh nghiệp tiêu biểu từ nhiều ngành kinh tế khác nhau, bao gồm: Hội Cấp thoát nước Việt Nam (VWSA), TTC AgriS (Nông nghiệp), Biti’s (Hàng tiêu dùng), WellSpring Saigon (Giáo dục song ngữ), Hợp tác xã Lạc Địa (Thực phẩm và Đồ uống), Pencil Group (Truyền thông sáng tạo), Wecare247 (Dịch vụ chăm sóc sức khỏe).
Trong năm 2025-2026, chương trình GEARS@VN sẽ thực hiện nghiên cứu về hiện trạng bình đẳng giới trong các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (thủy sản, dệt may, da giày, gỗ và nội thất); cũng như tiếp tục tìm kiếm và hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu tiêu biểu trong việc quản trị hiệu quả và nâng cao chỉ số Bình đẳng giới tại nơi làm việc, giúp tích hợp kết quả vào Báo cáo Phát triển bền vững của các doanh nghiệp, qua đó góp phần củng cố vị thế của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng xuất khẩu toàn cầu, cũng như trong bức tranh đầu tư tác động của khu vực.
Bài, ảnh: T. Quỳnh – Đ. Tùng

Đọc thêm về chúng tôi